BỘ TÀI LIỆU Phổ biến Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính
Tải về
BỘ TÀI LIỆU
Phổ biến
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật xử
lý vi phạm hành chính
(Bộ Tài liệu đăng tải trên Cổng thông tin điện
tử huyện Quỳ Hợp)
Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 13
tháng 11 năm 2020. Luật có hiệu lực kể
từ ngày 01 tháng 01 năm 2022 (sau đây gọi là Luật số 67/2020/QH14).
Luật số 67/2020/QH14 được thông qua đã đánh dấu
một bước phát triển mới trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính nói riêng và hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung.
I. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU CỦA LUẬT
1. Quan điểm chỉ
đạo xây dựng Luật
1.1. Tiếp tục
thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng về cải cách hệ thống
pháp luật, cải cách tư pháp và cải cách hành chính được xác định trong Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Kết luận số 01-KL/TW ngày 04/4/2016 của Bộ Chính
trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW, Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng như
thể chế hóa những chủ trương mới của Đảng nêu tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ
5, 6, 7 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII; Chỉ thị số 36-CT/TW ngày
16/8/2019 của Bộ Chính trị về tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác phòng,
chống và kiểm soát ma túy.
1.2. Sửa đổi, bổ sung các nội dung
liên quan trực tiếp đến những khó khăn, vướng mắc chủ yếu trong thực tiễn thi
hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính.
1.3. Tăng cường tính công
khai, minh bạch, hiệu quả và bảo đảm dân chủ trong quy định về thủ tục xử lý vi
phạm hành chính; bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của
người dân, nhất là người chưa thành niên; nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi
hành, áp dụng pháp luật và quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính trong thực tiễn.
1.4. Bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong hệ
thống pháp luật, trọng tâm là pháp luật về xử lý vi phạm hành chính với pháp
luật về phòng, chống ma túy, pháp luật hình sự; bảo đảm tính tương thích của
các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính với các điều ước quốc tế có
liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, đặc biệt là một
số công ước quốc tế về quyền con người.
2. Mục tiêu
Hoàn thiện các cơ chế, chính sách, trình tự, thủ tục
trong pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và khắc phục tối đa những hạn chế,
bất cập trong các quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính (Luật XLVPHC), góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu
quả của công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên thực tế,
bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội.
II. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT
1. Bố cục
Luật số 67/2020/QH14 bố cục thành 03 điều, cụ thể:
- Điều 1: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính
(có 75 khoản).
- Điều 2: Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 163 của Luật Thi hành án dân sự số
26/2008/QH12 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 64/2014/QH13 và
Luật số 23/2018/QH14).
- Điều 3: Hiệu lực thi hành.
2. Nội dung
Luật số 67/2020/QH14 đã
sửa đổi, bổ sung nội dung của 66/142
điều (trong đó 16 điều sửa đổi, bổ sung toàn diện), sửa kỹ thuật 11/142 điều, bổ sung mới 04 điều, bãi bỏ 03 điều của Luật XLVPHC hiện hành, với những nội
dung cơ bản sau đây:
2.1. Những quy
định chung
Luật
số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung một số quy định chung tại Phần thứ nhất
của Luật XLVPHC bao gồm: Sửa đổi, bổ sung quy định về khái niệm tái phạm (khoản 5 Điều 2 Luật XLVPHC); nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính đối với
vi phạm hành chính nhiều lần (điểm d
khoản 1 Điều 3 của Luật XLVPHC); thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính (Điều 6 Luật XLVPHC);
thẩm quyền quy định về xử phạt vi phạm hành chính và chế độ áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính (Điều 4 Luật XLVPHC); hành
vi bị nghiêm cấm (Điều 12 Luật XLVPHC), cụ thể:
2.1.1. Về
thuật ngữ tái phạm
Giữa quy định về tái phạm và quy định về vi phạm
hành chính nhiều lần tại Điều 2 Luật XLVPHC chưa có sự phân biệt rõ ràng, do
vậy, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 2 Luật XLVPHC về giải
thích từ ngữ “tái phạm”, theo đó, tái phạm là việc cá nhân, tổ chức đã bị ra quyết định xử phạt
vi phạm hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm
hành chính mà lại thực hiện hành vi vi phạm hành chính đã bị xử phạt; cá nhân
đã bị ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính nhưng chưa hết thời hạn
được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính mà lại thực hiện hành vi
thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đó.
2.1.2. Về xử
lý hành vi vi phạm hành chính nhiều lần
Điểm d khoản 1 Điều 3 Luật XLVPHC quy định: Một
người “vi phạm hành chính nhiều lần thì
bị xử phạt về từng hành vi vi phạm”. Trong khi đó, điểm b khoản 1 Điều 10
Luật XLVPHC lại quy định: “vi phạm hành
chính nhiều lần” là tình tiết tăng nặng, theo đó, đây là tình tiết được
người có thẩm quyền xem xét khi quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Do vậy,
Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung điểm d khoản 1 Điều 3 Luật XLVPHC quy định cụ thể về
nguyên tắc xử phạt đối với từng hành vi trong trường hợp “vi phạm hành chính
nhiều lần”, trừ
trường hợp hành vi vi phạm hành chính nhiều
lần được Chính phủ quy định là tình tiết tăng nặng.
2.1.3. Về thời hiệu xử lý vi phạm
hành chính
Liên
quan đến thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính, Luật số 67/2020/QH14 đã bổ sung điểm đ vào khoản 2 Điều 6
Luật XLVPHC quy định thời điểm để tính thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý vi
phạm hành chính trong trường hợp cá nhân bị đề nghị cố tình trốn tránh, cản trở việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Theo đó, trong thời hạn được quy định tại các điểm a, b, c và d khoản này mà cá
nhân cố tình trốn tránh, cản trở việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính thì
thời hiệu được tính lại kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở
việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
2.1.4. Về những hành vi bị nghiêm cấm
Luật
số 67/2020/QH14 bổ sung một số hành vi bị
nghiêm cấm trong xử lý vi phạm hành chính tại Điều 12 Luật XLVPHC do trong quá
trình thi hành phát sinh trong thực tiễn như: Xác định hành vi vi phạm hành chính
không đúng; áp dụng hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả
không đúng, không đầy đủ đối với hành vi vi phạm hành chính; không theo dõi, đôn đốc, kiểm
tra, tổ chức cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả.
2.2.
Về xử phạt vi phạm hành chính
2.2.1. Về mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh
vực
Mức
phạt tiền tối đa trong một số lĩnh vực quản lý nhà nước được quy định từ năm
2012 (thời điểm ban hành Luật XLVPHC). Tại thời điểm hiện nay, mức phạt tiền
này quá thấp so với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, sau gần 08 năm
(tính từ thời điểm ban hành Luật XLVPHC), một số hành vi vi phạm trong các lĩnh
vực xảy ra ngày càng phổ biến, tinh vi, nguồn thu lợi bất hợp pháp là rất lớn,
gây hậu quả lớn đến xã hội, làm thiệt hại kinh tế, thậm chí làm ảnh hưởng tới
tính mạng, sức khỏe của người dân nhưng mức phạt tối đa áp dụng đối với hành vi
vẫn chưa tương xứng với tính chất, mức độ của vi phạm, thiếu tính răn đe và
không đủ sức phòng ngừa, hạn chế vi phạm hành chính mới. Bên cạnh đó, việc bổ
sung mức tiền phạt tối đa tại Điều 24 của Luật XLVPHC đối với một số lĩnh vực
mới đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội đồng ý quy định mức phạt tiền tối đa cụ
thể làm căn cứ pháp lý để Chính phủ quy định trong quá trình thi hành Luật
XLVPHC những năm qua cũng rất cần thiết. Thêm nữa, tên gọi một số lĩnh vực quy
định tại Điều 24 của Luật cũng có sự thay đổi trong các luật được thông qua sau
khi Luật XLVPHC được ban hành nên cũng cần chỉnh sửa cho thống nhất.
Do
vậy, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi,
bổ sung theo hướng tăng mức phạt tối đa trong một số lĩnh vực; bổ sung mức phạt
tối đa cho một số lĩnh vực chưa được quy định tại Điều 24 Luật XLVPHC; chỉnh
sửa tên gọi một số lĩnh vực cho phù hợp với các Luật hiện hành ban hành sau
Luật XLVPHC, cụ thể:
(i) Tăng mức phạt tiền tối đa của 10 lĩnh vực
như:
-
Giao thông đường bộ: từ 40 triệu lên 75 triệu.
-
Phòng, chống tệ nạn xã hội: từ 40 triệu lên 75 triệu.
-
Cơ yếu: từ 50 triệu lên 75 triệu.
-
Quản lý và bảo vệ biên giới quốc gia: từ 50 triệu lên 75 triệu.
-
Giáo dục: từ 50 triệu lên 75 triệu.
-
Điện lực: từ 50 triệu lên 100 triệu.
-
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: từ 100 triệu lên 200 triệu.
-
Thủy lợi: từ 100 triệu lên 250 triệu.
-
Báo chí: từ 100 triệu lên 250 triệu.
-
Kinh doanh bất động sản: từ 150 triệu lên 500 triệu.
(ii) Bổ sung quy định mức phạt tiền tối đa của
08 lĩnh vực, như: Đối ngoại; cứu nạn, cứu hộ; an ninh mạng; an toàn thông tin
mạng; kiểm toán nhà nước; cản trở hoạt động tố tụng; bảo hiểm thất nghiệp; in.
(iii) Sửa đổi tên của một số lĩnh vực như:
Lĩnh vực sản xuất, kinh doanh giống vật nuôi, cây trồng thành trồng trọt; sản
xuất, kinh doanh thức ăn chăn nuôi thành chăn nuôi; dạy nghề thành giáo dục
nghề nghiệp; quản lý rừng, lâm sản thành lâm nghiệp; thăm dò, khai thác dầu khí
và các loại khoáng sản khác thành hoạt động dầu khí và hoạt động khoáng sản
khác; hạn chế cạnh tranh thành cạnh tranh; quản lý công trình thủy lợi; bảo vệ
nguồn lợi thủy sản thành thủy sản.
2.2.2. Về thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính
Một là, Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung tên gọi và bãi bỏ
một số chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính xuất phát từ việc, hiện nay, một số cơ quan, đơn vị được sắp xếp lại tổ chức bộ máy, chính vì vậy, cơ cấu, tổ
chức, tên gọi của một số cơ quan, đơn vị cũng như các chức danh có thẩm quyền
xử phạt vi phạm hành chính đã có sự thay đổi, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung một
số chức danh mới có thẩm quyền xử phạt trong các lĩnh vực quản lý nhà nước cũng
như bãi bỏ một số chức danh đã được quy định trong Luật nhưng hiện nay không
còn thẩm quyền xử phạt. Theo đó, Luật đã bãi bỏ một số chức danh có thẩm quyền
xử phạt theo Luật XLVPHC hiện hành như: Cục trưởng Cục Dự trữ khu vực, Tổng cục
trưởng Tổng cục Thống kê, Trưởng ban thi đua khen thưởng Trung ương (Điều 46),
một số chức danh trong lực lượng Công an nhân dân (Điều 39) do thay đổi cơ cấu
tổ chức, chức năng, nhiệm vụ…, đồng thời bổ sung một số chức danh có thẩm quyền
xử phạt như Kiểm ngư viên, Trạm trưởng trạm Kiểm ngư thuộc Chi cục Kiểm ngư
vùng, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư Vùng, Cục trưởng Cục Kiểm ngư (Điều 43a),
Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh quốc gia (Điều 45a), Trưởng đoàn kiểm toán, Kiểm
toán trưởng (Điều 48a), một số chức danh trong lực lượng Công an nhân dân (Điều
39) và Quản lý thị trường (Điều 45).
Ngoài
ra, Luật đã bổ sung quy định về thẩm quyền xử phạt của cơ quan Thi hành án dân
sự. Khoản 5 Điều 49 của Luật XLVPHC quy định thẩm quyền xử phạt của Tổng cục
trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự, tuy nhiên Luật Thi hành án dân sự (được sửa
đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 64/2014/QH13 và Luật số 23/2018/QH14)
không quy định thẩm quyền xử phạt của chức danh này nên chưa bảo đảm tính thống
nhất. Thực tiễn thi hành pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính thời gian qua
cho thấy, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự vẫn thực hiện thẩm quyền
xử phạt theo quy định của Luật XLVPHC. Do vậy, để bảo đảm thống nhất của hệ
thống pháp luật, phù hợp với thực tiễn thi hành, Luật XLVPHC đã bổ sung thẩm
quyền xử phạt của Tổng cục trưởng Tổng cục thi hành án dân sự vào khoản 1 Điều
163 của Luật Thi hành án dân sự (Điều 2 Luật số 67/2020/QH14).
Hai là, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi quy định về thẩm quyền xử phạt của một số chức danh theo hướng tăng thẩm quyền
xử phạt vi phạm hành chính, cụ thể:
(i) Tăng thẩm quyền phạt tiền của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp huyện (điểm b khoản 2 Điều 38) và Giám đốc Công an cấp tỉnh (điểm b
khoản 5 Điều 39) từ
50.000.000 đồng lên 100.000.000 đồng.
(ii) Sửa đổi việc áp dụng hình thức tịch
thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính của
các chức danh từ Điều 38 đến Điều 49 Luật XLVPHC theo hướng: Bên cạnh thẩm quyền tịch
thu tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính của
các chức danh là cấp cuối cùng của mỗi lực lượng đã được Luật XLVPHC hiện hành
quy định, Luật bổ sung 08 nhóm chức danh (chủ yếu thuộc các cơ quan được tổ chức
theo ngành dọc ở cấp tỉnh hoặc liên tỉnh) có thẩm quyền tịch thu tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính không phụ thuộc vào giá trị tang vật, phương tiện. Đối với các chức
danh khác ở cấp cơ sở có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện có giá trị
không vượt quá 02 lần mức tiền phạt theo thẩm quyền.
Ba là, Điều 53
Luật XLVPHC hiện hành chưa quy định cụ thể về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính của một chức danh trong một số trường hợp như: có sự thay đổi về tên gọi,
đồng thời với thay đổi về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn hoặc không có sự thay
đổi về tên gọi nhưng có sự thay đổi về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Luật đã
sửa đổi, bổ sung Điều 53 để quy định cụ thể về những trường hợp chức danh có
thẩm quyền xử phạt có sự thay đổi về tên gọi, đồng thời với thay đổi về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn hoặc không có sự thay đổi về tên gọi nhưng có sự thay
đổi về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Theo đó, trường hợp chức danh có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Luật này có sự thay đổi về tên
gọi nhưng không có sự thay đổi về nhiệm vụ, quyền hạn thì thẩm quyền xử phạt
của chức danh đó được giữ nguyên.
Trường
hợp chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính có sự thay đổi về nhiệm
vụ, quyền hạn thì thẩm quyền xử phạt của chức danh đó do Chính phủ quy định sau
khi được sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Bốn là,
liên quan đến vấn đề giao quyền xử phạt vi
phạm hành chính, Luật đã sửa đổi, bổ sung Điều 54 về việc giao quyền cho cấp phó áp dụng biện
pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6
và 7 Điều 119 của Luật XLVPHC; đồng thời, quy định rõ văn bản giao quyền phải được thể hiện bằng quyết
định.
2.2.3. Về
thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
So với Luật XLVPHC
hiện hành, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến thủ tục xử phạt để bảo
đảm tính cụ thể, rõ ràng, tính khả thi khi áp
dụng trong thực tiễn nhằm tháo gỡ những vướng
mắc, bất cập trong quá trình thi hành Luật XLVPHC thời
gian qua, cụ thể:
Một là,
hiện nay
Luật XLVPHC quy định thời gian tiến hành một số
công việc quá ngắn, chưa phù hợp thực tế, không bảo đảm tính khả thi; thủ tục
thực hiện một số công việc cũng chưa cụ thể dẫn đến sự lúng túng trong quá
trình áp dụng pháp luật (thủ tục lập biên bản vi phạm hành chính, ra quyết định
xử phạt vi phạm hành chính, giải trình…)… Do
vậy, Luật đã sửa đổi, bổ sung các quy định có
liên quan nhằm tháo gỡ những vướng mắc, bất cập kể trên, cụ thể là:
- Tăng thời hạn định giá tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính tại khoản 3 Điều 60 Luật XLVPHC từ 24 giờ
lên 48 giờ.
- Quy
định thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo Điều 66 Luật XLVPHC
là tương đối ngắn, đặc biệt là khi vụ việc thuộc trường hợp
phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt. Chính vì vậy, Luật
số
67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều
66 Luật XLVPHC theo hướng, vụ việc thuộc trường hợp
phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 10
ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 63 của Luật
này.
-
Bổ sung các quy định về lập biên bản vi phạm hành chính (Điều 58) theo
hướng quy định nguyên tắc “phải kịp thời lập biên bản”; đồng
thời, Luật cũng bổ sung quy định về việc gửi biên bản vi phạm
hành chính, theo đó, biên bản vi phạm hành chính có thể được lập, gửi bằng
phương thức điện tử đối với trường hợp cơ quan của người có thẩm quyền xử phạt, cá nhân, tổ chức vi phạm
đáp ứng điều kiện về cơ sở hạ tầng, kỹ thuật, thông tin nhằm đáp ứng yêu cầu
thực tiễn hiện nay.
-
Sửa đổi, bổ sung quy định về các trường hợp và
thủ tục giải trình tại Điều 61 Luật XLVPHC.
Hai là, sửa đổi, bổ sung Điều 64 Luật XLVPHC theo hướng mở rộng
lĩnh vực được sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện vi
phạm hành chính. Theo đó, Luật đã bổ sung các lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ, phòng, chống ma
túy, phòng, chống tác hại của rượu, bia bên cạnh lĩnh vực trật tự, an toàn giao
thông, bảo vệ môi trường. Đối với các lĩnh vực khác sẽ do Chính phủ quy định
sau khi được sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bên
cạnh đó, Luật quy định rõ ràng
hơn về điều kiện, yêu cầu trong quản lý, sử
dụng, quy định danh mục các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ; điều
kiện, yêu cầu trong sử dụng, bảo quản kết quả thu thập được bằng phương tiện,
thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ; đồng thời, giao Chính phủ quy
định quy trình chuyển hóa kết quả thu
được từ các phương tiện, thiết bị do các cá nhân, tổ chức cung cấp thành chứng
cứ để xác định vi phạm hành chính.
Ba là, về xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi,
bổ sung các quy định có liên quan đến vấn đề này nhằm khắc phục những bất cập phát sinh trong thực tiễn như việc xác
minh chủ sở hữu phương tiện, việc xử lý đối với các phương tiện có giá trị thấp
hoặc không còn giá trị rất khó khăn, mất nhiều thời gian; việc xử lý đối với
tang vật, phương tiện đã quá thời hạn tạm giữ mà không xác định được chủ sở
hữu/ người vi phạm hoặc chủ sở hữu/ người vi phạm không đến nhận; việc xử lý
đối với tang vật, phương tiện do bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép để vi phạm hành
chính thuộc trường hợp bị tịch thu, cụ thể như sau:
- Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, khoản 4 Điều
126 đã sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể,
rõ ràng hơn việc thông báo, niêm yết công khai về tang vật, phương tiện bị tạm
giữ (số lần thông báo, thời hạn thông báo, xử lý tài sản sau khi hết thời hạn
thông báo, niêm yết công khai…).
Đồng thời, Luật số 67/2020/QH14 cũng quy
định về việc xử lý đối với tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính thuộc trường hợp bị tịch thu nhưng đã đăng ký biện pháp bảo đảm thế
chấp tài sản theo quy định của pháp luật dân sự. Theo đó, đối với trường hợp
này thì bên nhận
thế chấp được nhận lại tang vật, phương tiện hoặc trị giá tương ứng với nghĩa
vụ được bảo đảm; cá nhân, tổ chức vi phạm phải nộp một khoản tiền tương đương
trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính vào ngân sách nhà nước.
- Đối với tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, để bảo đảm thống nhất với quy định
của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật số 67/2020/QH14 quy định theo hướng viện dẫn: “Tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính đã có quyết định tịch thu được xử lý theo
quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công” (bổ sung khoản 3 vào sau
khoản 2 Điều 81 Luật XLVPHC), đồng
thời, bãi bỏ Điều 82 Luật XLVPHC.
2.2.4. Về việc
thi hành và cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Để cơ bản giải quyết
những vướng mắc, bất cập trong quá trình thi hành và cưỡng chế thi hành quyết
định xử phạt vi phạm hành chính, Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung về vấn đề này như sau:
Một là, Luật
số
67/2020/QH14 quy định rõ hơn trường hợp không ra quyết xử phạt vi
phạm hành chính nhưng vẫn áp dụng tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định thì không bị coi là đã bị
xử phạt vi phạm hành chính để bảo đảm tính rõ ràng hơn khi áp dụng pháp luật
tại Điều 65 Luật XLVPHC.
Hai là, Luật số 67/2020/QH14 sửa đổi, bổ sung quy định về hoãn, giảm, miễn tiền phạt tại Điều 76 và Điều 77 Luật XLVPHC theo hướng bổ sung
quy định tổ chức cũng được hoãn, giảm,
miễn tiền phạt để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho tổ chức/doanh nghiệp khi gặp
khó khăn về tài chính do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ
(khoản 37, 38 Điều 1 Luật số
67/2020/QH14).
Ba là, Luật XLVPHC chưa có quy
định về thời hạn, thời hiệu thi hành quyết định cưỡng chế thi hành quyết định
xử phạt vi phạm hành chính. Do vậy, tại Điều
88 Luật số 67/2020/QH14 đã bổ
sung quy định cụ thể về
thời hạn, thời hiệu thi hành quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt
vi phạm hành chính.
2.3. Về áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
2.3.1. Về đối
tượng, điều kiện, áp dụng
các biện pháp xử lý hành chính
Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến
đối tượng và điều kiện áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại các Điều 90, 92, 94 và 96 Luật XLVPHC để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với
BLHS; quy định về độ tuổi, số lần vi phạm bị xử phạt vi phạm hành chính... bảo đảm phù hợp với thực tiễn, bảo đảm tính khả thi,
cụ thể:
- Quy định cụ thể các hành vi vi
phạm là điều kiện để áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
- Làm rõ hơn quy định “02 lần trở lên trong 06 tháng”, thống
nhất trong cách áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
- Bỏ quy định về việc đối tượng
phải vi phạm “02 lần trong 06 tháng”
là điều kiện áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo
dục bắt buộc để tránh kéo dài thời gian áp dụng các biện pháp này.
- Bổ sung quy định về việc áp dụng
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người sử dụng trái phép
chất ma túy (Người từ đủ 14 tuổi trở lên
đã hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản vi phạm hành chính
tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về hành vi sử dụng trái phép
chất ma túy).
- Sửa đổi quy định về đối tượng áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo hướng dẫn chiếu đến Luật Phòng,
chống ma túy nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của pháp luật.
- Bổ sung
quy định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với 02 trường hợp: (i) người từ
đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi đã hai
lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản tại lần vi phạm thứ ba
trong thời hạn 06 tháng về một trong các hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng
tài sản của người khác, gây rối trật tự công cộng, trộm cắp tài sản, đánh bạc,
lừa đảo, đua xe trái phép mà không phải là tội phạm; (ii) người từ đủ 18 tuổi trở lên đã hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính
và bị lập biên bản tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về một trong
các hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác, gây rối trật
tự công cộng, trộm cắp tài sản, đánh bạc, lừa đảo, đua xe trái phép, hành hạ
ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình mà không
phải là tội phạm.
2.3.2. Về thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành
chính
Luật số
67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến
thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính nhằm đơn giản hóa thủ tục, rút
ngắn tối đa các mốc thời gian thực hiện các công việc; sửa đổi các quy định tại khoản 1 Điều 98, khoản 3 Điều 99, khoản 3 Điều
101 và khoản 3 Điều 103 của Luật hiện hành liên quan đến thủ tục kiểm tra tính
pháp lý của hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính theo hướng:
(i) Không quy định việc kiểm tra tính
pháp lý thành một thủ tục riêng biệt, độc lập.
(ii) Không quy định thẩm quyền kiểm tra
tính pháp lý của công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã đối với hồ sơ đề nghị áp
dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn, Trưởng phòng
Tư pháp cấp huyện đối với hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Thay vào đó, Luật quy định rõ, cơ quan nào lập hồ sơ đề nghị thì phải chịu trách nhiệm về
tính pháp lý của hồ sơ. Bởi vì, thực tế cho thấy quy định việc kiểm tra tính
pháp lý thành một thủ tục riêng biệt, độc lập không thật sự cần thiết, làm kéo
dài thời gian xem xét, áp dụng.
2.3.3. Về việc
quản lý đối tượng trong thời gian lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý
hành chính
Luật số 67/2020/QH14 sửa
đổi, bổ sung quy định tại Điều 131 Luật XLVPHC
theo hướng: Đối với người không có nơi cư trú ổn định hoặc có nơi cư trú
ổn định nhưng gia đình không đồng ý quản lý thì cơ quan, người có thẩm quyền lập
hồ sơ quyết định: Giao cho trung tâm, cơ sở tiếp nhận đối tượng xã hội hoặc cơ
sở cai nghiện bắt buộc của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quản lý đối với
người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; giao cho Ủy
ban nhân dân cấp xã nơi người vi phạm cư trú hoặc có hành vi vi phạm tổ chức quản
lý trong trường hợp
bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục
bắt buộc. Quy
định nêu trên nhằm tháo gỡ vướng mắc của Điều 131 Luật XLVPHC hiện hành do quy định này hầu như không thể triển khai trong một thời
gian dài.
2.4. Về các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành
chính
2.4.1. Về biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính
Điều 122 Luật XLVPHC quy định chỉ
được áp dụng biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính trong trường hợp
cần ngăn chặn, đình chỉ ngay những hành vi gây rối trật tự công cộng, gây
thương tích cho người khác. Tuy nhiên, việc quy định những
trường hợp được áp dụng biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính như
Luật hiện hành là tương đối hẹp, gây khó khăn cho việc thi hành Luật XLVPHC. Do vậy, để
bảo đảm tính
đầy đủ, khắc phục bất cập trong thực tế hiện nay, nhằm
tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người có thẩm quyền trong thực hiện pháp luật,
Luật đã bổ sung vào
khoản 1 Điều 122
Luật XLVPHC một số trường hợp phải tạm giữ người theo thủ tục
hành chính như: Để thi hành quyết định đưa vào
trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; người có
hành vi bạo lực gia đình vi phạm quyết định cấm tiếp xúc theo quy định của pháp
luật về phòng, chống bạo lực gia đình; để xác định tình trạng nghiện ma túy đối
với người sử dụng trái phép chất ma túy bên cạnh các trường hợp cần ngăn chặn,
đình chỉ ngay hành vi gây rối trật tự công cộng, gây thương tích cho người khác
và cần ngăn chặn, đình chỉ ngay hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa
qua biên giới.
2.4.2.
Về biện pháp
tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề
Một là, Luật số
67/2020/QH14 đã bổ sung vào khoản 3 Điều
125 Luật XLVPHC quy định cụ thể: thẩm quyền tạm giữ không phụ thuộc vào giá trị
của tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.
Hai là, Luật số
67/2020/QH14 sửa đổi,
bổ sung quy định về trình tự, thủ tục tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép,
chứng chỉ hành nghề tại các khoản 4 và 9 Điều 125 Luật XLVPHC theo hướng: (i)
Người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính đang giải quyết vụ việc lập
biên bản tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành nghề; sau đó,
trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi lập biên bản, người lập biên bản phải báo cáo
thủ trưởng của mình là người có thẩm quyền tạm giữ tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính để xem xét ra quyết định tạm giữ; (ii) Bỏ quy định về việc
người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ phải ký vào biên bản tạm giữ.
2.5. Về biện
pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
Một trong những
điểm mới của Luật số 67/2020/QH14 so với Luật XLVPHC hiện hành
là việc bổ sung biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng là một trong
các biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên
(Điều 140a) nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích tốt nhất cho người chưa thành
niên. Theo đó, giáo dục dựa vào cộng đồng là biện pháp thay thế xử lý vi
phạm hành chính áp dụng đối với người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện
hành vi có dấu hiệu của một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý quy định tại
Bộ luật hình sự có nơi cư trú ổn định, đang theo học tại cơ sở giáo dục và cha
mẹ, người giám hộ cam kết bằng văn bản về việc quản lý, giáo dục. Căn cứ vào quy định này, Tòa án
nhân dân quyết định áp dụng biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng.
Người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp giáo dục
dựa vào cộng đồng được đi học hoặc tham gia các chương trình học tập hoặc dạy
nghề khác; tham gia các chương trình tham vấn, phát triển kỹ năng sống tại cộng
đồng.
2.6. Về
quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
Luật số 67/2020/QH14 đã
bãi bỏ quy định
về việc báo cáo công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính định kỳ
06 tháng tại Điều 17 Luật XLVPHC nhằm giảm bớt thủ tục và yêu cầu các
bộ, ngành, địa phương và các cơ quan, đơn vị trực tiếp thực hiện việc thống kê,
tổng hợp báo cáo.
III. CÁC ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
1. Về bảo đảm nguồn nhân lực
Cơ quan, người có
thẩm quyền quản lý công tác thi hành pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính có trách nhiệm: (i) Bảo đảm đầy đủ cán bộ, công chức có
năng lực, trình độ trong tổng biên chế được giao thực hiện nhiệm vụ quản
lý công tác thi
hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính và áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính (ii) Kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ
quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính,
xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính; (iii)Thường xuyên rà soát đội ngũ
cán bộ, công chức để điều động, biệt phái cán bộ, công chức có năng lực, trình
độ từ các cơ quan khác sang làm nhiệm vụ quản lý công
tác thi
hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính và áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính khi có yêu cầu.
Cơ quan
của người có
thẩm quyền quản lý công tác thi hành pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính có trách nhiệm ưu tiên sử dụng cán bộ, công chức được đào
tạo và có năng lực thực hiện nhiệm vụ được giao.
Cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ quản lý công tác thi hành pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính được bố trí, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng theo quy định của
pháp luật về cán bộ, công chức.
2. Về bảo đảm nguồn kinh phí
Kinh phí bảo đảm cho
công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính do ngân sách nhà nước
cấp theo quy định của Luật ngân sách nhà nước và các văn bản quy định chi tiết,
hướng dẫn thi hành. Việc sử dụng kinh phí bảo đảm cho công tác thi hành pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính phải đúng mục đích, nội dung, chế độ và định
mức chi theo quy định của pháp luật về các chế độ chi tiêu tài chính. Nội dung
chi và mức chi cho công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính được
thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
IV. DỰ BÁO TÁC
ĐỘNG
Văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã nêu: “Hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, công
khai, minh bạch, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc
tế”. Trên cơ sở chủ trương, định
hướng của Đảng, Nhà nước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách
hành chính, cải cách tư pháp, thực hiện việc quy phạm hóa các quyền tự
do dân chủ, quyền con người, quyền công dân bằng các quy định của pháp
luật, trong đó có Luật XLVPHC, một đạo luật quan trọng đối với kinh tế - xã
hội và có tác động trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân.
Theo quy định tại
khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 thì “quyền
con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Các quy định mới của Luật số
67/2020/QH14,
điển hình là các quy định về trình tự thủ tục xử phạt vi phạm hành chính, các quy định về trình tự,
thủ tục lập hồ sơ, xem xét, quyết định áp dụng và thi hành các biện pháp xử
lý hành chính…
được quy định trên cơ sở chủ trương trên, bảo đảm tính công khai, minh bạch, rõ ràng, nhằm tạo thuận lợi, dễ dàng cho
người dân nhận thức chấp hành pháp luật và lực lượng chức năng thực thi công vụ
trong thực tiễn. Việc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ các quy định của Luật
XLVPHC không còn phù hợp và quy định cụ thể, rõ ràng chế tài xử lý góp phần tích cực trong việc đấu
tranh, phòng chống vi phạm hành chính trong tình hình mới, giúp cho các cá
nhân, tổ chức hiểu rõ hơn về những hành vi vi phạm hành chính, từ đó có những hành vi ứng
xử phù hợp với quy định của pháp luật. Đồng thời, việc xây dựng một môi trường pháp lý
minh bạch, khách quan, cũng sẽ giúp các doanh nghiệp yên tâm đầu tư sản xuất, kinh doanh, góp phần thay đổi diện mạo của nên kinh tế
ở nước ta.
Bên
cạnh đó, các quy định mới của Luật cũng bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con
người, tiến tới các chuẩn mực quốc tế về quyền con người theo hướng công khai,
minh bạch, công bằng, đặc biệt là các quy định về áp dụng biện pháp xử lý vi
phạm hành chính, các quy định liên quan đến người chưa thành niên vi phạm hành
chính.
Mặt
khác, việc quy
định trình tự thủ tục, thẩm quyền chặt chẽ, rõ ràng cũng đã khắc phục được
những sai sót trong quá trình áp dụng Luật từ đó góp phần hạn chế tình trạng
khiếu nại, tố cáo của cá nhân, tổ chức, tạo niềm tin trong nhân dân. Điều
này góp phần nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý thi hành pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính. Đây
cũng là nhân tố quan trọng bảo đảm thực thi pháp luật xử lý vi phạm
hành chính
nghiêm túc, thống nhất, chính xác, hiệu quả, bảo đảm đầy đủ các quyền con
người, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đã được Hiến pháp quy định.
V. TRIỂN KHAI THI HÀNH LUẬT
Để
triển khai Luật, các Bộ, ngành, địa phương, cơ quan liên quan cần tập trung
thực hiện một số công việc sau:
1. Tổ chức triển khai thi hành Luật
Trong
phạm vi quản lý ngành, lĩnh vực, địa bàn, các Bộ, ngành, địa phương có trách
nhiệm tổ chức triển khai, quán triệt nội dung của Luật số 67/2020/QH14 đến cơ
quan, người có thẩm quyền xử phạt; cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính; cơ quan, người có thẩm quyền quản lý công tác thi
hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
2. Tuyên truyền, phổ biến nội dung của Luật và
các văn bản hướng dẫn thi hành
- Tổ chức tuyên truyền,
phổ biến Luật XLVPHC và các văn bản hướng dẫn thi hành trên các phương tiện
thông tin đại chúng và các hình thức khác phù hợp với tưng đối tượng, địa bàn
nhằm nâng cao trách nhiệm, nhận thức của Nhân dân, nhất là đối với đội ngũ cán
bộ, công chức làm công tác xử lý vi phạm hành chính.
- Nghiên cứu, xây dựng
một số chuyên đề về Luật XLVPHC đăng trên tạp chí, báo để tuyên truyền,
phổ biến các nội dung mang tính chuyên sâu.
3. Rà soát, xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ và ban hành mới các văn bản quy
phạm pháp luật để phù hợp với Luật
3.1.
Rà soát, xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan có thẩm quyền
ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ các văn
bản quy phạm pháp luật cho phù hợp với Luật
Các
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân các cấp và các cơ quan, tổ chức khác có liên quan thực hiện việc rà soát
các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan và đề xuất để sửa đổi, bổ sung,
thay thế bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp với Luật.
Trên
cơ sở đó, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi
bỏ, ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan
có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật để sửa đổi, bổ sung, thay
thế, bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp với Luật số
67/2020/QH14.
3.2.
Xây dựng, trình Chính phủ ban hành các nghị định quy định chi tiết thi hành
Luật Xử lý vi phạm hành chính
Việc
xây dựng, trình Chính phủ ban hành hệ thống các nghị định quy định chi tiết thi
hành Luật XLVPHC là nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cấp thiết nhằm hoàn thiện
thể chế, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính. Do vậy, các Bộ, cơ quan ngang Bộ cần triển khai thực hiện việc xây
dựng, trình Chính phủ ban hành các nghị định quy định chi tiết thi hành Luật
XLVPHC trong năm
2021 để có hiệu lực thi hành cùng thời điểm với Luật số 67/2020/QH14.
4. Tổ chức tập huấn chuyên sâu và bồi
dưỡng nghiệp vụ xử lý vi phạm hành chính
Thực
hiện việc tổ chức tập huấn chuyên sâu và bồi dưỡng nghiệp vụ chung cho cán bộ,
công chức thực hiện nhiệm vụ quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính và đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp làm công tác xử lý vi
phạm hành chính ở các cơ quan Trung ương và địa phương. Các cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương tổ chức tập huấn chuyên sâu và bồi dưỡng nghiệp vụ xử lý vi phạm hành
chính cho đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quản lý công
tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và đội ngũ cán bộ, công chức
trực tiếp làm công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực hoặc địa bàn
thuộc quyền quản lý của mình.
5. Kiểm tra công tác thi hành pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính
Nghị định số 19/2020/NĐ-CP
ngày 12/02/2019 của Chính phủ về kiểm tra, xử lý kỷ luật trong thi hành pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực kể từ ngày 31/3/2020. Đây là một
bước tiến lớn trong quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính. Để triển khai thi hành Luật hiệu quả, thống nhất trong phạm vi toàn quốc
thì việc tăng cường hoạt động kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính theo Nghị định số 19/2020/NĐ-CP có vai trò hết sức quan trọng.
Do vậy, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Ủy ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện nhiệm vụ tăng cường kiểm tra
công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính./.
Phòng
Tư pháp huyện Quỳ Hợp