PHÂN BIỆT VIỆC ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
VÀ VIỆC GIÁM HỘ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Người chưa thành niên, có thể có nơi cư trú khác nơi cư
trú của cha, mẹ (tức là cháu chắt có thể nhập khẩu ở với ông bà, cô dì, chú bác…).
Nhưng, cha mẹ luôn là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên. Nếu
người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc cha mẹ bị mất năng lực hành vi dân
sự thì người giám hộ là người đại diện theo pháp luật của người chưa thành niên.
Việc giám hộ phải được đăng ký theo quy định của pháp luật. Giám hộ có 2 loại là
giám hộ đương nhiên và giám hộ do cử hoặc chỉ định, cụ thể:
I. Nơi cư trú của người chưa thành
niên
1. Nơi cư trú của người chưa thành
niên là nơi cư trú của cha, mẹ; nếu cha, mẹ có nơi cư trú khác nhau thì nơi cư
trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha hoặc mẹ mà người chưa thành
niên thường xuyên chung sống; trường hợp không xác định được nơi thường xuyên
chung sống thì nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi do cha, mẹ thỏa
thuận; trường hợp cha, mẹ không thỏa thuận được thì nơi cư trú của người chưa
thành niên do Tòa án quyết định.
2. Người chưa thành niên có thể có
nơi cư trú khác, với nơi cư trú của cha, mẹ nếu được cha, mẹ đồng ý hoặc pháp
luật có quy định.
(Điều 12 Luật cư trú 2020).
II. Đại
diện theo pháp luật của cá nhân
1. Cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
2. Người giám hộ đối với người được giám hộ.
Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại
diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định.
(Điều 136, Bộ luật
dân sự 2015).
III. Giám hộ
1. Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật
quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định
tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này (sau đây gọi chung là người giám hộ) để thực
hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi (sau đây gọi chung là người được giám hộ).
2. Trường hợp giám hộ cho người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi thì phải được sự đồng ý của người đó nếu họ có
năng lực thể hiện ý chí của mình tại thời điểm yêu cầu.
3. Việc giám hộ phải được đăng ký tại cơ quan
nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
Người giám hộ đương nhiên mà không đăng ký việc
giám hộ thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ.
(Điều 46 Bộ luật dân sự 2015).
IV. Người
được giám hộ
1. Người được giám hộ bao gồm:
a) Người chưa thành niên không còn cha, mẹ
hoặc không xác định được cha, mẹ;
b) Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng
cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ
đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện
chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ;
c) Người mất năng lực hành vi dân sự;
d) Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi.
2. Một người chỉ có thể được một người giám hộ,
trừ trường hợp cha, mẹ cùng giám hộ cho con hoặc ông, bà cùng giám hộ cho cháu.
(Điều 47 Bộ luật dân sự 2015).
V. Người
giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên
Người giám hộ đương nhiên của người chưa thành
niên quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật này được xác định
theo thứ tự sau đây:
1. Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả
là người giám hộ; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ
thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa
thuận anh ruột hoặc chị ruột khác làm người giám hộ.
2. Trường hợp không có người giám hộ quy định
tại khoản 1 Điều này thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ
hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người
giám hộ.
3. Trường hợp không có người giám hộ quy định
tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc
dì ruột là người giám hộ.
Việc giám hộ chỉ đặt ra đối với người chưa
thành niên, khi cha mẹ người chưa thành niên đó mất hoặc không làm đại diện được.
(Điều 52 Bộ luật dân sự 2015).
PHÒNG TƯ PHÁP QUỲ HỢP